Vụ việc liên quan đến bản quyền của bài hát Quốc ca Việt Nam, vụ nhãn hiệu mì ăn liền Hảo Hảo và mì ăn liền Hảo Hạng, vụ nhãn hàng Asanzo và nhãn hàng Asanno… chỉ là vài điển hình trong vô số vụ tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ xảy ra trong những năm vừa qua. Tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ đang diễn ra rất nhiều trên thế giới. Và ngay cả tại Việt Nam, với nền kinh tế hội nhập, cạnh tranh, toàn cầu hóa như hiện nay thì đây là điều không thể tránh khỏi. Tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ có thể diễn ra bất cứ khi nào. Đây cũng là một loại tranh chấp rất đặc biệt. Quyền sở hữu trí tuệ cần được đặt ra và được quan tâm khi mà ngày càng có nhiều công ty với những phát minh sáng chế, những nhãn hàng nhãn hiệu trở nên lớn mạnh và phổ biến. Thực tế tại Việt Nam loại tranh chấp này dù có xảy ra nhưng việc đăng ký quyền sở hữu trí tuệ vẫn chưa được xem trọng do suy nghĩ và hiểu biết về quyền sở hữu trí tuệ còn hạn chế.
Để không phải nhận lấy những hậu quả, rủi ro nặng nề từ việc bị mất quyền sở hữu trí tuệ thì việc tuân thủ quy chế đăng ký sở hữu trí tuệ cần thiết hơn bao giờ hết. Nếu không khi đã xảy ra tranh chấp thì bản quyền sở hữu chỉ thuộc về người đi trước. Bài toán khó cần tìm đáp số cho dù có khó.
Quyền sở hữu trí tuệ là gì?
Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 và năm 2019 tại Khoản 1 Điều 4 định nghĩa về quyền sở hữu trí tuệ như sau: “Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng”.
Cũng tại Điều 4, các từ ngữ liên quan được giải thích như sau:
- Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu.
- Quyền liên quan đến quyền tác giả (sau đây gọi là quyền liên quan) là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa.
- Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.
- Quyền đối với giống cây trồng là quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống cây trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu.
Như vậy quyền sở hữu trí tuệ được hiểu là quyền sở hữu đối với các sản phẩm của hoạt động trí tuệ và tinh thần như tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hàng, nhãn hiệu,… và được pháp luật công nhận và bảo vệ bằng luật pháp.
Đặc điểm nhận dạng của quyền sở hữu trí tuệ
Dựa vào một số đặc điểm sau để nhận dạng quyền sở hữu trí tuệ:
- Quyền sở hữu trí tuệ là một tài sản vô hình. Quyền sở hữu trí tuệ rất đặc biệt vì đây không phải là vật cụ thể mà là thành quả của lao động sáng tạo được thể hiện dưới dạng phi vật chất. Được vật chất hoá khi được mang ra áp dụng vào sản xuất, kinh doanh. Quyền sở hữu trí tuệ được phân thành hai loại chính. Loại áp dụng trong đời sống tinh thần của con người và làm cho đơi sống tinh thần của con người phong phú hơn như các tác phẩm âm nhạc, văn học… Loại áp dụng vào sản xuất, kinh doanh để tạo ra các sản phẩm vật chất mang tính công nghệ như các sáng kiến, sáng chế…
- Quyền sử dụng có vai trò quan trọng trong sở hữu trí tuệ. Một sản phẩm trí tuệ được sáng tạo ra chưa khẳng định được giá trị của bản thân nó mà phải qua quá trình ứng dụng, sử dụng vào thực tế mới có đánh giá thiết thực. Quyền sử dụng, quyền chiếm hữu và định đoạt trong quyền sở hữu trí tuệ được chia thành hai phần, đó là quyền tài sản và quyền nhân thân. Hai quyền này luôn có mối quan hệ khắng khít nhau. Quyền này là tiền đề của quyền kia. Quyền tài sản chỉ có thể xác định cho một chủ thể nhất định dựa trên căn cứ quyền nhân thân có mối liên hệ trực tiếp với tài sản. Những quyền liên quan đến nhân thân người sáng tạo không thể tách rời và thuộc về người sáng tạo vĩnh viễn như quyền đứng tên tác giả, quyền đặt tên tác phẩm, những quyền tài sản có thể chuyển giao cho người khác thông qua các hợp đồng chuyển giao quyền.
- Quyền sở hữu trí tuệ là có thời hạn. Quyền sở hữu trí tuệ không mang tính tuyệt đối và vô thời hạn như quyền sở hữu các tài sản hữu hình khác mà luôn có giới hạn. Trong thời hạn bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là bất khả xâm phạm. Nhưng hết thời gian bảo hộ tài sản đó trở thành tài sản chung của nhân loại, có thể được phổ biến một cách tự do mà không cần bất kỳ sự cho phép nào của chủ sở hữu. Tác giả một tác phẩm không thể có độc quyền định đoạt vô thời hạn đối với tác phẩm, mà chỉ tồn tại trong thời hạn, thời gian nhất định và có giới hạn về điều kiện sử dụng.
- Quyền sở hữu trí tuệ có giới hạn lãnh thổ. Quyền sở hữu trí tuệ được ghi nhận và bảo hộ ở một quốc gia không có nghĩa là sẽ được bảo hộ ở các quốc gia khác, việc xâm phạm có thể diễn ra tại quốc gia khác mà không hề bị coi là phạm pháp. Quyền sở hữu trí tuệ dễ bị xâm phạm, những sản phẩm sáng tạo của trí tuệ một khi đã được công khai sẽ dễ dàng được phổ biến và bị khai thác . Vì vậy, trong điều kiện hiện nay, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trên quy mô quốc tế thông qua các điều ước quốc tế là rất cần thiết.
Thế nào là tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ?
Như chúng ta đã biết, sở hữu trí tuệ là sở hữu một tài sản vô hình. Quyền sở hữu trí tuệ là một trong những đối tượng dễ phát sinh tranh chấp nhất với độ phức tạp và hành vi vi phạm tinh vi. Việc tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ phát sinh từ các mâu thuẫn liên quan đến quyền và lợi ích của các chủ thể như quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp,… Tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ phát sinh khi quyền và lợi ích hợp pháp của một trong các bên bị xâm phạm. Một tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ chỉ được coi là có tranh chấp khi có sự xung đột, bất đồng về quyền lợi các bên đã được thể hiện ra bên ngoài bằng các hành vi xâm phạm cụ thể. Nói cách khác, tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ là những mâu thuẫn, xung đột lợi ích giữa các chủ thể liên quan đến việc xác lập, khai thác, sử dụng và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Có thể phân làm 4 loại tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ như sau:
- Tranh chấp quyền tác giả có thể có tính chất thuần túy liên quan quyền nhân thân hoặc thuần túy liên quan đến quyền tài sản.
- Tranh chấp quyền liên quan.
- Tranh chấp quyền sở hữu công nghiệp.
- Tranh chấp quyền đối với giống cây trồng.
Thực tế tại Việt Nam các vụ việc vi phạm về sở hữu trí tuệ vẫn thường xuyên xảy ra nhưng xử lý thì rất phức tạp. Vì vậy, để tránh không rơi vào tình trạng bị mất quyền sở hữu trí tuệ, thông qua việc đăng ký quyền sở hữu trí tuệ, các cá nhân và tổ chức có thể tự bảo vệ được tài sản trí tuệ của chính mình. Khi cần hỗ trợ, hãy liên hệ với chúng tôi để được hướng dẫn chi tiết hơn: letran@corporatecounsel.vn.